Năm ngoái, kinh doanh nhà mạng là lĩnh vực đem lại doanh thu lớn nhất cho công ty trụ sở Thẩm Quyến này với hơn 281,4 tỷ NDT (39,5 tỷ USD), chiếm gần 44% tổng doanh thu. Ding đột ngột qua đời vào thời điểm các lệnh trừng phạt từ Mỹ đã làm tê liệt hiệu quả mảng kinh doanh tiêu dùng của Huawei, khiến công ty này phải tìm kiếm các nguồn thu khác.
Những ngày qua, lùm xùm tình ái giữa Shark Bình và nữ diễn viên Phương Oanh cùng mối quan hệ nhập nhằng của vợ nam doanh nhân nhận được quan tâm của dư luận. cửa hàng quần áo của Phương Oanh vẫn hoạt động bình thường, cô nhiều lần khoe nhan sắc xinh đẹp trong những
Ảnh Top 15 HHHV Việt Nam 2019 Nguyễn Diana trước khi qua đời. Cập nhật lúc: 06:55 10/10/2022. Nguyễn Diana qua đời ở tuổi 26. Sinh thời, "bông hồng lai" từng tham gia một số cuộc thi nhan sắc. Ngắm nhan sắc 3 "đóa hồng lai" của Miss Universe Vietnam 2019. Ai sẽ đăng quang Hoa hậu Hoàn
Oct 7, 2022. #1. (Dân trí) - Ông Nguyễn Tiến Thành, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Chứng khoán Tân Việt, qua đời ngày 6/10. Theo nguồn tin xác nhận với Dân trí, ông Nguyễn Tiến Thành - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Chứng khoán Tân Việt
Bán nhà riêng Quan Nhân - Nhân Chính - 35m- 5 taangd- mạt tiền cực thoáng - ô tô - kinh doanh - nhỉnh 3 tỷ - lh0975124520+ Bán nhà Quan Nhân, Thanh Xuân, giáp phố Cự Lộc, Chính Kinh, Nhân Hòa, Nhân Chính, Vũ Trọng Phụng, vài bước chân ra mặt phố ô tô tránh, ngõ 3 gác phóng vèo vèo.+ Vị trí đẹp, xung quanh nhiều tiện ích, trung
1. TÔ chúc, Cá nhân kinh doanh bát dêng sån têi Viêt Nam. 2. Co quan, tð chúc, Cá nhân có liên quan dén kinh doanh bát dêng sån tai Viêt Nam. Ðièu 3. Giåi thích tù ngü Trong Luat này, các tù ngù dubi dây duqc hiéu nhu sau: l. Kinh doanh bat dêng sån là viêc dàu tu vón thvc hiên hoat dêng xây
2. Điểm 3g khoản 3 và điểm 1a khoản 3 điều 1 Nghị định 45/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 - Công văn số 1005/XNK-THCS ngày 04/09/2019 V/v quy định về hoạt động tạm nhập, tái xuất và gia công hàng hóa.
qIJtKB. Kinh Kim Cang Giảng giải Đoạn 3 Đại Thừa Chánh Tông ÂM ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG Phật cáo Tu-bồ-đề - Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát. DỊCH CHÁNH TÔNG CỦA ĐẠI THỪA Phật bảo Tu-bồ-đề - Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào Vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát. GIẢNG “Chín loài chúng sanh” chỉ trùm tất cả chúng sanh. Niết-bàn nghĩa là vô sanh. Niết-bàn có Hữu dư y Niết-bàn và Vô dư y Niết-bàn. Những vị chứng quả A-la-hán, được vô sanh nhưng còn thân hình tướng thì gọi là Hữu dư Niết-bàn; được Niết-bàn sau khi xả thân nghĩa là được vô sanh sau khi không còn thân tướng thì gọi là Vô dư Niết-bàn. Bốn tướng Tướng ngã thấy có mình thật. Tướng nhân thấy có người thật. Tướng chúng sanh thấy tất cả loài có thật. Tướng thọ giả thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian. Đây là đến phần Phật trả lời hai câu hỏi trước của ngài Tu-bồ-đề. Câu hỏi đầu là an trụ tâm, câu hỏi thứ hai là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời đức Phật đổi lại trả lời câu hỏi hàng phục tâm trước và câu hỏi an trụ tâm sau. Trong đoạn này Phật dạy cách hàng phục tâm tức chỉ phương pháp tu hành. Đức Phật dạy Đối với tất cả loài chúng sanh ta đều đưa họ vào chỗ Niết-bàn không còn hình tướng để họ được diệt độ. Diệt độ như thế không biết bao nhiêu chúng sanh mà thật không có một chúng sanh nào được diệt độ. Đó là hàng phục được tâm, quí vị làm được điều đó không? Phật lại bảo tiếp Tại sao thế? - Vì nếu Bồ-tát còn một tướng ngã hay tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát. Phật trả lời khó hiểu quá, thấy như lạc đề. Đây là chỗ chánh yếu nhưng vừa mở đầu chúng ta thấy ngỡ ngàng, chúng ta mong Phật trả lời làm sao hàng phục tâm mà đức Phật trả lời như thế này thì làm sao hàng phục tâm được! Tôi không nói loài sanh bằng trứng, những loài sanh chỗ ẩm ướt, những loài sanh do biến hóa, những loài có sắc, không sắc mà chỉ nói những loài thai sanh và trong loài sanh bằng thai, tôi hạn chế trong loài người thôi. Chừng nào chúng ta độ tất cả loài người vào Vô dư Niết-bàn mà không thấy họ được diệt độ, chừng đó chúng ta mới hàng phục được tâm. Vậy chừng nào chúng ta làm được việc đó? Nếu như không làm được việc đó thì hàng phục tâm không được. Tại sao hỏi hàng phục tâm mà Phật dạy độ chúng sanh ở ngoài? Đó là điều khó, từ xưa đến giờ chính khi chúng tôi học, đến chỗ này chúng tôi cũng lắc đầu, điều Phật dạy rất khó áp dụng trong việc tu hành. Nếu chúng ta hiểu theo lời theo chữ thì sẽ có hai điểm không thể thực hiện được. Điểm thứ nhất là chúng ta thấy Phật chưa thành Phật. Tại sao? Vì khi đức Phật thành Phật, thử hỏi tất cả người - chỉ nói là người thôi - ở Ấn Độ, Phật đã độ được vào Vô dư Niết-bàn hết chưa? Chúng ta thấy rõ rằng lúc đó còn ngoại đạo rất nhiều, Ngài chỉ độ một số mấy ngàn vị thôi chớ đâu phải tất cả, vậy tại sao Ngài được thành Phật? Nếu hàng phục tâm chưa được thì làm sao thành Phật? Điểm thứ hai là Phật dạy chúng ta làm một việc mà không bao giờ chúng ta làm nổi. Thử hỏi tất cả quí vị cũng như chúng tôi, ai đã được Vô dư Niết-bàn? Thế mà chúng ta phải đưa tất cả chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, chừng đó mình mới hàng phục được tâm. Vậy đến bao giờ chúng ta mới làm được việc đó? Chỗ mình chưa đạt tới mà Phật bảo mình độ người đạt được chỗ đó, làm sao chúng ta làm được? Cũng như chúng ta còn dốt mà bảo dạy tất cả người đậu tiến sĩ hết, chừng đó mới được làm quan thì thật là vô lý. Thế nên nếu học kinh Phật, nhất là kinh Đại thừa, mà hiểu theo chữ, theo lời thì không làm sao giải thích được. Điểm thứ nhất ta thấy mâu thuẫn với Phật, điểm thứ hai mâu thuẫn với chúng ta, như thế làm sao có thể áp dụng trong việc tu hành? Nhưng đến sau này khi tu thiền và đọc sách thiền rồi, chúng tôi mới giật mình, không ngờ mình không hiểu lời Phật nói. Kinh nói trong chúng ta có đủ cả Thập pháp giới, đó là Tứ thánh và Lục phàm. Quí vị thấy có khi chúng ta phát lòng từ bi giống như Phật, như Bồ-tát, có khi chúng ta xấu xa như con heo, con bò, có khi chúng ta hung dữ như con cọp, con sói. Trong chúng ta có đủ trăm thứ nghĩ, tốt xấu lẫn lộn. Thế nên mỗi một dấy niệm về người thì đó là một chúng sanh thai sanh, một dấy niệm về chim chóc thì đó là chúng sanh noãn sanh, một dấy niệm về con bướm, con ong thì đó là hóa sanh, một dấy niệm về con đom đóm đó là thấp sanh, nghĩ đến hư không đó là chúng sanh vô sắc, dấy niệm về con người có tưởng, đó là chúng sanh có tưởng, dấy niệm buông hết vọng tưởng, buông hết cả những tâm tưởng đó là chúng sanh vô tưởng… dấy niệm là sanh. Tại sao? Bởi vì khi lặng thì không có niệm, mà niệm dấy lên là do duyên với cảnh hoặc người, hoặc vật. Vọng thức bên trong duyên theo bóng dáng của vọng trần, cả hai phối hợp nhau mà sanh nên gọi là chúng sanh. Mỗi một niệm dấy lên như vậy là một chúng sanh. Những chúng sanh do niệm vừa dấy lên đó chúng ta liền độ vào Vô dư Niết-bàn. Làm sao độ? Chúng sanh đó dấy lên, ta biết chúng sanh này giả tức nhiên nó lặng xuống chỗ không sanh và khi nó lặng xuống không còn thấy tăm dạng nên gọi là Vô dư Niết-bàn. Như thế chúng ta thấy đức Phật độ hết chúng sanh, Ngài hàng phục được tâm, Ngài thành Phật. Như thế mới có lý, mới đúng sự thật. Cũng thế nếu những vọng tưởng của chúng ta đang điên cuồng chạy ngược, chạy xuôi theo có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng… theo tất cả hình tướng bên ngoài, bây giờ chúng ta đưa nó vào Vô dư Niết-bàn, vào chỗ lặng lẽ không sanh diệt, tâm chúng ta không còn loạn nữa, đó là chúng ta hàng phục được tâm. Hiểu như vậy chúng ta mới tu được. Như thế chúng ta mới thấy rõ đức Phật thành Phật trong khi tất cả chúng sanh vẫn còn. Ngài hàng phục được tâm của Ngài nên mới được đến chỗ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như bây giờ chúng ta vừa phát tâm tu thì chúng ta cũng hàng phục như vậy, lần lần tâm an định chúng ta mới tiến bộ được. Nếu cứ lo độ chúng sanh ở ngoài trong khi chính mình chưa độ được mình thì độ được ai? Hiểu như vậy rồi chúng ta thấy kinh Phật rất cao siêu, lời lẽ diễn tả những hình ảnh mà chúng ta không hiểu là những hình ảnh đó qui về mình rồi chúng ta cứ tưởng là việc bên ngoài. Khi chúng ta tưởng như thế chúng ta sẽ thối chí không biết làm sao thực hành. Thế nên ngày xưa chính tôi đã từng nói rằng Kinh Đại thừa chắc chỉ để trên gác thờ, không thể áp dụng trong việc tu hành, nhưng nay chúng ta hiểu rõ rồi, mới thấy chính đoạn này trả lời rất sát câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục được tâm, Phật dạy Một niệm dấy lên là một chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh là hàng phục tâm. Đây là Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Rõ ràng là Phật trả lời việc hàng phục tâm. Nếu nói độ tất cả chúng sanh thì ta thấy như là người hỏi việc bên trong mà Phật trả lời việc bên ngoài, không dính dáng gì với nhau. Nhưng ở đây, chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa độ tất cả chúng sanh, đó là đưa tất cả niệm vào chỗ không còn sanh diệt. Khi nào thực hành quí vị mới thấy rõ. Một niệm dấy lên nghĩ về người, chúng ta liền nói niệm đó giả dối không thật, không theo. Khi biết nó giả, ta không theo thì nó lặng xuống, lặng xuống chỗ không còn thấy tướng mạo, đó là Vô dư Niết-bàn. Không sanh là Niết-bàn, không còn tướng mạo là vô dư. Bao nhiêu niệm đều đưa vào đó nên nói độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ, nghĩa là đưa tất cả vào đó hết mà không còn thấy có một người nào hay một niệm nào thật. Quí vị thấy thật là khó, khó ngay ở buổi đầu. Thế nên Phật nói tiếp Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? - Bởi vì một niệm dấy lên tức là có chấp ngã trong đó. Quí vị nhớ từ cái chấp ngã của Đại thừa đi lần đến chấp ngã sâu kín vi tế của Thiền tông. Hai cái tương ưng nhau. Chấp ngã của Đại thừa là chấp thân làm ngã và chấp tâm làm ngã. Từ cái chấp thân, tâm làm ngã đến niệm dấy lên chấp niệm đó là mình, đó cũng là chấp ngã. Niệm dấy lên cho là mình nghĩ, đó là chấp ngã. Tại sao? Dấy niệm là suy nghĩ về người, suy nghĩ về cảnh, thử hỏi ai nghĩ, ai nghĩ về người, ai nghĩ về cảnh? Thô thì chấp thân này, tế thì chấp một niệm, vì vậy còn thấy một niệm thật là còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; nếu đưa hết những niệm vào Vô dư Niết-bàn rồi thì đâu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Người làm được như vậy, đức Phật nói Đó là Bồ-tát độ chúng sanh. Quí vị thấy mỗi ngày chúng ta ngồi ở tảng đá chơi, hoặc ngồi ở trước hành lang nhà, hoặc ngồi trong vườn, nếu chúng ta cứ lo độ chúng sanh như vậy, nghĩa là mỗi chúng sanh dấy lên chúng ta đưa vào Vô dư Niết-bàn, đó cũng là Bồ-tát độ chúng sanh rồi. Tại sao gọi là Bồ-tát? Vì Bồ-tát là một chúng Hữu tình giác ngộ và đem sở giác của mình giáo hóa kẻ khác, tức là tự giác và giác tha. Niệm dấy lên chúng ta biết nó là hư giả, đó là giác; giác rồi đưa nó vào chỗ vô sanh, đó là độ chúng sanh. Như vậy quí vị thấy giờ nào mà không độ chúng sanh? Chúng ta độ chúng sanh đó thì sẽ đi đến chỗ an trụ Niết-bàn. Tóm lại đức Phật chủ yếu dạy chúng ta đối với tất cả niệm khởi về người về vật muôn ngàn hình tướng đều cho lặng xuống hết, lặng vào chỗ không còn sanh diệt, khi đó là hàng phục tâm. Tâm chúng ta không còn loạn động nữa, mà hết loạn động tức là chúng ta hàng phục được tâm thuần thục. Như thế câu trả lời rất là xác đáng. Và như vậy mới hết tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Hiện giờ có nhiều người không hiểu, cho thân này là ngã nên bảo “thôi tôi xả thân, tôi không nghĩ gì đến tôi hết, tôi bố thí tất cả thức ăn, thức mặc, cái gì tôi cũng không kể”, nhưng niệm của họ vẫn còn khởi thì cái xả đó vẫn chưa sạch. Tỉ dụ cứ nghĩ ta là người bố thí, ta là người nhẫn nhục tức là còn ngã chớ gì? Cho nên còn một niệm là còn ngã, cái ngã tế nhị như vậy. Thành ra có nhiều người làm việc coi như xả ngã mà chính là nuôi cái ngã thêm to, đó là cái ngã vọng tưởng ở tâm. Thế nên khi hiểu rồi quí vị mới thấy ở đây đức Phật bảo Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? - Vì nếu Bồ-tát còn bốn tướng đó không phải là Bồ-tát. Còn bốn tướng là còn dấy niệm thấy có mình tức có ngã, mà có ngã tức là có nhân, có chúng sanh, có thọ giả… Có dấy niệm mới chấp, mới nghĩ ta phải người quấy, mới thấy ta hay người dở nếu không dấy niệm thì chấp cái gì? Đó là chỗ cứu kính trong việc tu hành. Hiểu được rồi chúng ta thấy rõ ràng vừa bước vào đoạn thứ nhất là đã biết được phương pháp tu hành. Mục Lục
Các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi trong ba cõi sáu đường, sau mới nghiên cứu qua kinh cao. MỤC LỤC I. NGHI THỨC TỤNG KINH NHÂN QUẢ 3 ĐỜI 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN 5. NIỆM HƯƠNG 6. TÁN PHẬT 7. QUÁN TƯỞNG 8. ĐẢNH LỄ 9. CHÚ ĐẠI BI 10. BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN 11. TÁN LƯ HƯƠNG 12. BÀI KHAI KINH KỆ II. KINH NHÂN QUẢ 3 ĐỜI III. HỒI HƯỚNG 1. BÁT NHÃ TÂM KINH 2. TÁN PHẬT 3. VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN 4. SÁM HỐI 5. THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN 6. CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ 7. DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH CHƠN NGÔN 8. TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN 9. SÁM HỐI NGUYỆN 10. HỒI HƯỚNG 11. TAM TỰ QUY 12. HỒI HƯỚNG CHÚNG SANH I. NGHI THỨC TỤNG KINH NHÂN QUẢ 3 ĐỜI 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN Án lam tóa ha 3 lần 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, ta bà ha. 3 lần 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật đà hám. 3 lần 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hộc. 3 lần 5. NIỆM HƯƠNG Nguyện đem lòng thành kính, Gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, Cúng dường ngôi Tam Bảo, Thề trọn đời giữ Đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sanh, Cầu Phật từ gia hộ, Tâm Bồ Đề kiên cố, Xa bể khổ nguồn mê, Chóng quay về bờ giác. 6. TÁN PHẬT Đấng Pháp Vương Vô Thượng, Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời, người, Cha lành chung bốn loại, Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận. 7. QUÁN TƯỞNG Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng, Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, Lưới Đế Châu ví đạo tràng, Mười phương Phật Bảo hào quang sáng ngời, Trước Bảo-tọa thân con ảnh hiện, Cúi đầu xin thề nguyện quy y. 8. ĐẢNH LỄ Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. 1 lạy Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. 1 lần Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 1 lần 9. CHÚ ĐẠI BI Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án na bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ, phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. Nam mô a lị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lần 10. BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo. 3 lần Kính lạy Đức Thế Tôn, Quy y các Phật Đà, Nay con phát nguyện rộng, Trì tụng các Kinh về Nhân Quả Trên trả bốn ơn nặng, Dưới giúp ba đường khổ. Những người thấy nghe được, Đều phát tâm Bồ Đề, Thực hành hạnh trí tuệ, Báo thân này kết thúc, Cùng sanh cõi Cực Lạc. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 3 lần 11. TÁN LƯ HƯƠNG Kim lư vừa bén chiên đàn, Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương, Hiện thành mây báu kiết tường, Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền, Pháp thân toàn thể hiện tiền, Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho. Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát. 3 lần 12. BÀI KHAI KINH KỆ Phật Pháp rộng sâu rất nhiệm mầu, Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu, Nay con nghe thấy chuyên trì tụng, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 3 lần II. KINH NHÂN QUẢ 3 ĐỜI Phật nói Kinh Nhân Quả Ba Đời Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng - Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng, cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên quả báo gì khiến nên như thế? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc. Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử “Lành thay! Lành thay! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ.” Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo. Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sanh, và thứ tư cần ăn chay, bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Phật liền nói bài kệ nhân quả rằng Giàu sang đều bởi mạng Đời trước có tu nhân Ai thọ trì Kinh nầy, Đời đời hưởng phước lộc. Thiện nam, tín nữ nghe ta nói Suy nhớ Kinh Nhân Quả Ba Đời, Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ, Phật nói lời thật chớ chê khinh. Đời nay làm quan do nhân gì? Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật Đời nay hưởng bởi nhân xưa Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật. Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình. Làm đẹp Như Lai, đẹp tự thân. Đừng bảo làm quan là chuyện dễ, Không tu, phước ấy đến từ đâu? Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc? Đời trước thí áo giúp Tăng Ni. Có ăn, có mặc do nhân gì? Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi? Kiếp trước một nửa không xả thí. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? Xưa lên chùa am cúng thí gạo. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì? Xưa lập chùa am cất nhà mát 1 Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì? Đời trước hoa tươi cúng dường Phật. Thông minh trí tuệ do nhân gì? Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật. Người thấy vui mừng do nhân gì? Xưa kết duyên lành cùng đại chúng. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật. Cha mẹ song toàn do nhân gì? Đời trước kính trọng người cô độc. Không cha mất mẹ do nhân gì? Kiếp trước là người đánh bẫy chim. Con cháu đông nhiều do nhân gì? Đời trước mở lồng thả chim thú. Nuôi con không được do nhân gì? Xưa sinh con gái dìm cho chết 2. Đời nay không con do nhân gì? Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa. hoa biết nói Đời nay sống lâu do nhân gì? Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. Đời nay mạng yểu do nhân gì? Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. Đời nay không vợ do nhân gì? Kiếp trước tham mưu gian vợ người. Đời nay ở góa do nhân gì? Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng. Làm thân tôi đòi do nhân gì? Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa. Đời nay mắt sáng do nhân gì? Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. Đời nay đui mù do nhân gì? Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì? Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật. Đời nay câm điếc do nhân gì? Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ. Đời nay lưng gù do nhân gì? Kiếp trước chê cười người lễ Phật. Tay bị cong quẹo do nhân gì? Đời trước đều là người tạo nghiệp. Chân bị co rút do nhân gì? Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người. Làm thân trâu ngựa do nhân gì? Xưa thiếu nợ người không chịu trả. Đọa làm heo chó do nhân gì? Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì? Xưa đem rượi thịt bày cúng Phật. Đời nay không bệnh do nhân gì? Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân. Hằng bị lao tù do nhân gì? Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người. Đời nay chết đói do nhân gì? Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột. Bị thuốc độc chết do nhân gì? Kiếp trước dăng lưới giết hại cá. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì? Ác tâm lấn hiếp mưu hại người. Đời nay lùn bé do nhân gì? Kiếp trước xem Kinh để dưới đất. 3 Nay thường thổ huyết do nhân gì? Xưa ăn thịt rồi đi tụng Kinh. 4 Đời nay ngu điếc do nhân gì? Kiếp trước tụng Kinh chẳng lắng nghe. Ghẻ lác phong điên do nhân gì? Xông hơi thịt cá trước bàn Phật. Thân có mùi hôi do nhân gì? Xưa bán hương thơm trọn dối gian. Đời nay chết treo do nhân gì? Kiếp trước đem dây săn bẫy thú. Quan quả, cô độc do nhân gì? Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? Cân non, giạ thiếu lòng gian xảo. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì? Kiếp trước gây oan tạo đối đầu. Muôn việc mình làm lại mình chịu Thọ khổ địa ngục oán trách ai? Đừng nói nhân quả người không thấy. Xa trả con cháu, gần trả mình. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước. Sẽ tin bố thí với trì trai. Kiếp trước tu nhân nay hưởng quả. Đời này tu tích để về sau. Nếu ai hủy báng Kinh Nhân Quả Kiếp sau đọa lạc mất thân người. Kẻ nào thọ trì Kinh Nhân Quả Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh Kẻ nào biên chép Kinh Nhân Quả, Truyền đời tu học, đạo nhà hưng. Ai mà mang đội Kinh Nhân Quả, Tai hung, hoạnh họa chẳng vào thân. Nếu người giảng nói Kinh Nhân Quả, Đời đời kiếp kiếp được thông minh. Kẻ nào đề xướng Kinh Nhân Quả Đời sau người thấy sinh cung kính Người nào ấn tống Kinh Nhân Quả Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời trước Chính sự thọ hưởng của đời nay. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời sau Chính sự gây nhân của kiếp này. Nếu như nhân quả không cảm ứng, Do đâu Mục Liên cứu được mẹ? Người nào tin sâu Kinh Nhân Quả, Đồng sinh Tây phương cõi Cực Lạc. Nhân quả ba đời nói không hết Thiên long chẳng bỏ ý người lành. Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn, Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn. Gởi kho bền chắc không hư mất, 5 Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng. Muốn biết nhân đời trước Xem sự hưởng đời nầy. Muốn biết quả đời sau Xem việc làm kiếp nầy. Phật Thuyết Kinh Nhân Quả 3 Đời Hết. III. HỒI HƯỚNG 1. BÁT NHÃ TÂM KINH Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệt phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng! Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô Nhãn Giới, nãi chí vô Ý Thức Giới; vô Vô Minh, diệc vô Vô Minh tận; nãi chí vô Lão Tử, diệc vô Lão Tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô Trí, diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú. Tức thuyết chú viết “Yết đế, Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.” 3 lần 2. TÁN PHẬT Đại Từ, Đại Bi thương chúng sanh Đại Hỷ, đại Xả cứu muôn loài Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm Đệ tử chí tâm quy mạng lễ. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 3 lần Nam mô A Di Đà Phật. 3 lần Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. 3 lần Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. 3 lần Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. 3 lần Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. 3 lần Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. 3 lần Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. 3 lần Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. 3 lần Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. 3 lần 3. VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa tỳ ca lan đế. A di rị đa tỳ ca lan đa. Dà di nị dà dà na. Chỉ đa ca lệ ta bà ha. 3 lần 4. SÁM HỐI Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp, Đều do vô thỉ tham, sân, si, Từ thân, miệng, ý phát sanh ra, Đệ tử thảy đều xin sám hối. Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát. 3 lần 5. THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN Ly bà ly bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà la ni đế, Ny ha ra đế, Tỳ lê nễ đế, Ma ha dà đế, Chơn lăng càn đế, ta bà ha. 3 lần Cúi đầu quy y phép Tô Tất Đế Thành tâm đảnh lễ đấng Thất Cu Chi Đệ tử xưng tán đức Đại Chuẩn Đề Nguyện Đức Từ Bi xót thương gia hộ. 6. CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ Nam mô tát đa nẫm, Tam miệu Tam bồ đề, cu chi nẫm, đát điệt tha. Án chiết lệ, chủ lệ Chuẩn đề, ta bà ha. 7 lần 7. DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH CHƠN NGÔN Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xã, lu lô tịch lưu ly, bác lặc bà, hát ra xà dã. Đát tha yết đa da, a ra hắc đế. Tam miệu tam bột đa da, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế, tóa ha. 3 lần 8. TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN Chúng sanh không số lượng, Thề nguyện đều độ khắp. Phiền não không cùng tận, Thề nguyện đều dứt sạch. Pháp môn không kể xiết, Thề nguyện đều tu học. Phật Đạo không gì hơn, Thề nguyện được viên thành. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 3 lần 9. SÁM HỐI NGUYỆN Cúi đầu đảnh lễ Như Lai, Chứng minh đệ tử ngày nay phát nguyền. Con xin đem dạ chí thiền, Thành tâm sám hối nghiệp khiên đã làm. Bởi xưa chưa rõ dạ phàm, Nên chi kết tạo dây oan cõi trần, Gây ra tội lỗi vô ngần, Luân hồi trả quả lắm phần đớn đau, Vào sanh ra tử đã lâu, Dấn thân lao khổ gẫm âu khó lường, Xuống lên ba cõi sáu đường, Đền bù với những vết thương lỗi lầm, Trả vay vay trả trầm luân, Gian nan thống khổ vô ngần vô biên, Cũng vì nghiệp báo oan khiên, Do mình kết tạo triền miên nối đời, Nếu nay chẳng biết quy hồi, Ắt thời khó tránh qua đời kiếp sau, Vậy con thi lễ cúi đầu, Chí thành sám hối nguyện cầu ăn năn, Như xưa có phạm điều răn, Gây nên tội lỗi nhố nhăng đau lòng, Thì nay lòng dạ ân cần, Chuyên lo tu luyện chuộc phần tội xưa, Bao nhiêu nguyện quấy xin chừa, Bao nhiêu điều thiện sớm trưa phụng hành, Ngày đêm giữ dạ sắt đinh, Trau dồi đạo đức Sử Kinh bền lòng, Nguyện thân ra khỏi bụi hồng, Muối dưa chay lạt nhiệt lòng say sưa, Tỉnh hồn chuông sớm mõ trưa, Nguyện tâm ra khỏi nắng mưa cõi trần, Xin nhờ Tam Bảo ai lân, Từ bi hỷ xả thi ân dắt dìu, Nay con tỉnh biết mọi điều, Thế gian là khổ, nghiệp chiêu bởi mình, Từ nay nguyện dứt sự tình, Say sưa ảo ảnh mến hình mộng du, Bền lòng giữ chặt điều tu, Thề không sai lạc mặc dù gian nan, Chí tâm vững dạ bền gan, Nguyện không cảm kích thế gian mộng đời. Nguyện xa bể khổ chơi vơi, Nguyện thành Phật đạo đến nơi mãn nguyền, Nguyện cùng cắt đứt dây duyên, Nguyện rằng dứt khỏi oan khiên kéo dời. Lòng không say đắm sự đời, Chuyên cần tu niệm chẳng rời một khi, Dứt điều luyến ái mê si, Noi gương bác ái, từ bi trau lòng, Sửa tâm như đóa liên hồng, Luôn luôn trong sạch thoát vòng nhiễm ô, Chí thành miệng niệm Nam mô, Nguyện lòng con được tính vô hoàn toàn, Nguyện về nơi cõi Lạc bang, Nguyện cho ra khỏi những đàng tử sanh, Cúi nhờ chư Phật chứng minh, Bao lời sám hối con xin nguyện cầu. Nam mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 3 lần Kệ Kiết Thính Chúng Chư Thiên, A Tu La Và Dược Xoa vân vân, Ai đến nghe Phật Pháp, Tất cả hãy hết lòng, Hộ trì Phật Pháp ấy, Làm cho trường tồn mãi, Bằng cách thường tinh tấn, Thực hành lời Phật dạy. Những người có đức tin, Đến đây nghe Phật Pháp. Hoặc ở trên mặt đất, Hoặc ở trong không gian, Với thế giới loài người, Hãy thường hành từ tâm, Bản thân thì ngày đêm, Sống đúng với Phật Pháp. Nguyện cầu mọi thế giới, Luôn luôn được yên ổn, Bằng cách phước và trí, Đều đem làm lợi người, Để bao nhiêu vọng nghiệp, Đều được tiêu tan cả, Siêu thoát mọi khổ đau, Qui về Đại Niết Bàn. Hãy xoa khắp cơ thể, Bằng hương thơm giữ Giới, Lại mặc cho cơ thể, Bằng y phục Thiền Định, Rồi trang điểm tất cả, Bằng bông hoa Tuệ Giác, Thì bất cứ ở đâu, Cũng thường được an lạc. Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát. 10. HỒI HƯỚNG Tụng Kinh công đức khó nghĩ lường, Vô biên thắng phước đều hồi hướng, Khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới, Đều được vãng sanh về Cực Lạc. Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ, Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ, Kiếp kiếp thường tu Bồ Tát Đạo. Nguyện sanh Cực Lạc, cảnh Tây Phương, Chín phẩm Hoa Sen là cha mẹ, Hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh, Bồ Tát Bất Thối là bạn hữu. 11. TAM TỰ QUY Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo Đạo cả, phát lòng Vô Thượng. 1 lần Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. 1 lần Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. 1 lần 12. HỒI HƯỚNG CHÚNG SANH Nguyện đem công đức nầy, Hướng về khắp tất cả, Đệ tử và chúng sanh, Đều trọn thành Phật Đạo.
KINH NHÂN QUẢ BA ỜI Việt Dịch HT Thích Thiền Tâm Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng – Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo gì khiến nên như thế? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc. Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử ! Lành thay ! Lành thay ! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ”. Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo. Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Phật liền nói bài kệ nhân qủa rằng Giàu sang đều bởi mạng Đời trước có tu nhân Ai thọ trì kinh nầy, Đời đời hưởng phước lộc. Thiện nam, tín nữ nghe ta nói Suy nhớ kinh Nhân Qủa ba đời Nhân qủa ba đời việc chẳng nhỏ, Phật nói lời Phật chớ chê khinh. 1. Đời nay làm quan do nhân gì? Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật. Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình. Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân. Đừng bảo làm quan là chuyện dễ, Không tu phước ấy đến từ đâu? 2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ. 3. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc? Đời trước thí áo giúp Tăng Ni. 4. Có ăn, có mặc do nhân gì? Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống. 5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi? Kiếp trước một nửa không xả thí. 6. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? Xưa lên chùa am cúng thí gạo. 7. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì? Xưa lập chùa am cất nhà mát 1 8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì? Đời trước hoa tươi cúng dường Phật. 9. Thông minh trí tuệ do nhân gì? Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật. 10. Người thấy vui mừng do nhân gì? Xưa kết duyên lành cùng đại chúng. 11. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật. 12. Cha mẹ song toàn do nhân gì? Đời trước kính trọng người cô độc. 13. Không cha mất mẹ do nhân gì? Kiếp trước là người đánh bẫy chim. 14. Con cháu đông nhiều do nhân gì? Đời trước mở lồng thả chim thú. 15. Nuôi con không được do nhân gì? Xưa sinh con gái dìm cho chết? 2 16. Đời nay không con do nhân gì? Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa. 17. Đời nay sống lâu do nhân gì? Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. 18. Đời nay mạng yểu do nhân gì? Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. 19. Đời nay không vợ do nhân gì? Kiếp trước tham mưu gian vợ người. 20. Đời nay ở góa do nhân gì? Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng. 21. Làm thân tôi đòi do nhân gì? Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa. 22. Đời nay mắt sáng do nhân gì? Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. 23. Đời nay đui mù do nhân gì? Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh. 24. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì? Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật. 25. Đời nay câm điếc do nhân gì? Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ. 26. Đời nay lưng gù cho nhân gì? Kiếp trước chê cười người lễ Phật. 27. Tay bị cong quẹo do nhân gì? Đời trước đều là người tạo nghiệp. 28. Chân bị co rút do nhân gì? Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người. 29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì? Xưa thiếu nợ người không chịu trả. 30. Đọa làm heo chó do nhân gì? Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người. 31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì? Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật. 32. Đời nay không bệnh do nhân gì? Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân. 33. Hằng bị lao tù do nhân gì? Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người. 34. Đời nay chết đói do nhân gì? Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột 35. Bị thuốc độc chết do nhân gì? Kiếp trước đăng lưới giết hại cá. 36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì? Ác tâm lấn hiếp mưu hại người. 37. Đời nay lùn bé do nhân gì? Kiếp trước xem kinh để dưới đất. 3 38. Nay thường thổ huyết do nhân gì? Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. 4 39. Đời nay ngu điếc do nhân gì? Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe. 40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì? Xông hơi thịt cá trước bàn Phật. 41. Thân có mùi hôi do nhân gì? Xưa bán hương thơm trọn dối gian. 42. Đời nay chết treo do nhân gì? Kiếp trước đem dây săn bẫy thú. 43. Quan, qủa, cô độc do nhân gì? Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người. 44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? Cân non, già, thiếu lòng gian xảo. 45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì? Kiếp trước gây oan tạo đối đầu. Muôn việc mình làm lại mình chịu Thọ khổ địa ngục oán trách ai? Đừng nói nhân qủa người không thấy. Xa trả con cháu, gần trả mình. 46. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước. Sẽ tin bố thí với trì trai. Kiếp trước tu nhân nay hưởng qủa. Đời nầy tu tích để về sau. Nếu ai hủy báng kinh Nhân Qủa Kiếp sau đọa lạc mất thân người. Kẻ nào thọ trì kinh Nhân Qủa. Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh. Kẻ nào biên chép kinh Nhân Qủa, Truyền đời tu học đạo nhà hưng. Ai mà mang đội kinh Nhân Qủa, Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân. Nếu người giản nói kinh nhân qủa Đời đời kiếp kiếp được thông minh Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Qủa Đời sau người thấy sinh cung kính. Người nào ấn tống kinh Nhân Qủa. Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương. Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời trước. Chính sự thọ hưởng của đời nay. Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời sau. Chính sự gây nhân của kiếp này, Nếu như nhân qủa không cảm ứng, Do đâu Mục Liên cứu được mẹ? Người nào tin sâu kinh Nhân Qủa. Đồng sinh Tây phương cõi Cực Lạc. Nhân qủa ba đời nói không hết. Thiên long chẳng bỏ ý người lành. Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn, Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn. Gởi kho bền chắc không hư mất, 5 Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng. Muốn biết nhân đời trước, Xem sự hưởng đời nay, Muốn biết qủa đời sau, Xem việc làm kiếp này. 1 Nhà dưỡng Lão, cô nhi 2 Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên dìm cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra. 3 Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn. 4 Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi Tịnh tam nghiệp chân ngôn Um Soa Pha Va Suýt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suýt đa hàm 7 biến Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma. 5 Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ý nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho. Download về máy PDF KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI TRỌN BỘ
Sách nói kinh nhân quả 3 đời Phật nói kinh nhân quả ba đời Thuở xưa, có người đến hỏi một vị Thiền sư “Bậc tu hành đã ngộ lý Chân Không, có lạc vào vòng nhân quả đặng?”. Thiền sư đáp “Bậc đại tu hành chẳng lạc vào vòng nhân quả”. Ác giả ác báo và chuyện vợ chồng gian thần Tần Cối bị phỉ nhổ muôn đời Vì câu trả lời này mà khiến cho Thiền sư phải đọa làm kiếp chồn năm trăm năm, sau gặp ngài Bá Trượng mới được giải thoát. Cũng do câu chuyện trên đây, nên các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi trong ba cõi sáu đường, sau mới nghiên cứu qua kinh cao. Nếu trái thứ tự, bước đầu tiên đọc những kinh như Kim Cang, Pháp Bảo Đàn…nếu không phải là người có nhiều căn lành, tất dễ sinh lòng khinh mạn và lạc vào lối chấp không? Thật ra, nhân qủa không phải là chuyện thấp nhỏ, vì từ chúng sinh đọa tam đồ cho đến chư Phật thành Chính Giác đều không ngoài nhân quả. Do sự kiện trên bút giả mới phiên dịch quyển kinh nàỵ Kinh Hoa Nghêm nói “Lòng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức”. Vì kinh nhân quả nói tóm tắt không mấy trang nên bút giả lại phụ thêm một ít câu chuyện tạm gọi là “Nhân quả luân hồi tạp lục”. Về việc luân hồi nhân quả ở Việt Nam ta cũng có nhiều, tiếc vì không ai ghi chép thành sách, nên tản mác đi. Vì thế, bút giả đành tìm dịch các câu chuyện bên Trung Hoa, và những việc này đều có thật. Cái thông bệnh của người tu Phật, là hay luận huyền nói diệu, mà việc thường nhỏ lại ít khi làm được. Nhớ lại hồi xưa sư cụ Khánh Hòa còn tại thế, có một Phật tử hỏi về đạo lý “vô thỉ vô chung”. Sư Cụ mỉm cười đáp “Hỏi chi xa vời vậy? Gắng ăn chay và niệm Phật cho đều đều là tốt lắm rồi!”, Đại để, người đã lăn lội trong nhiều giáo điển, lại không muốn nói diệu huyền mà chỉ chú trọng đến sự thật hành thông thường, là như thế. Kinh Hoa Nghiêm nói “Lòng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức”. Mong những vị hữu duyên, khi xem đến quyển sách này, bắt đầu tu niệm tin có linh hồn ma quỷ, đến tin có tội phước báo ứng, việc chuyển kiếp luân hồi, cũng sự linh hiển của Phật Pháp. Do đó, lần lượt tiếp tục xem những kinh cao hơn. Chừng ấy, lẽ không không sắc sắc, đường thị thị phi phi, sẽ hỏi Phật đà mà tỉnh ngộ. ——— Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng – Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo gì khiến nên như thế? Tin và sống theo định luật nhân quả Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc. Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử Lành thay! Lành thay! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ”. Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo. Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Tạo nhân duyên gì để hạt giống nghiệp xấu không trổ quả? Phật liền nói bài kệ nhân quả rằng Giàu sang đều bởi mạng Đời trước có tu nhân Ai thọ trì kinh này, Đời đời hưởng phước lộc. Thiện nam, tín nữ nghe ta nói Suy nhớ kinh Nhân Quả ba đời Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ, Phật nói lời Phật chớ chê khinh. 1. Đời nay làm quan do nhân gì? Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật. Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình. Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân. Đừng bảo làm quan là chuyện dễ, Không tu phước ấy đến từ đâu? 2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ. 3. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc? Đời trước thí áo giúp Tăng Ni. 4. Có ăn, có mặc do nhân gì? Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống. 5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi? Kiếp trước một nửa không xả thí. 6. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? Xưa lên chùa am cúng thí gạo. 7. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì? Xưa lập chùa am cất nhà mát 1 8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì? Đời trước hoa tươi cúng dường Phật. 9. Thông minh trí tuệ do nhân gì? Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật. 10. Người thấy vui mừng do nhân gì? Xưa kết duyên lành cùng đại chúng. 11. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật. 12. Cha mẹ song toàn do nhân gì? Đời trước kính trọng người cô độc. 13. Không cha mất mẹ do nhân gì? Kiếp trước là người đánh bẫy chim. 14. Con cháu đông nhiều do nhân gì? Đời trước mở lồng thả chim thú. 15. Nuôi con không được do nhân gì? Xưa sinh con gái dìm cho chết? 2 16. Đời nay không con do nhân gì? Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa. 17. Đời nay sống lâu do nhân gì? Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. 18. Đời nay mạng yểu do nhân gì? Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. 19. Đời nay không vợ do nhân gì? Kiếp trước tham mưu gian vợ người. 20. Đời nay ở góa do nhân gì? Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng. 21. Làm thân tôi đòi do nhân gì? Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa. 22. Đời nay mắt sáng do nhân gì? Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. 23. Đời nay đui mù do nhân gì? Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh. 24. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì? Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật. 25. Đời nay câm điếc do nhân gì? Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ. 26. Đời nay lưng gù cho nhân gì? Kiếp trước chê cười người lễ Phật. 27. Tay bị cong quẹo do nhân gì? Đời trước đều là người tạo nghiệp. 28. Chân bị co rút do nhân gì? Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người. 29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì? Xưa thiếu nợ người không chịu trả. 30. Đọa làm heo chó do nhân gì? Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người. 31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì? Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật. 32. Đời nay không bệnh do nhân gì? Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân. 33. Hằng bị lao tù do nhân gì? Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người. 34. Đời nay chết đói do nhân gì? Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột 35. Bị thuốc độc chết do nhân gì? Kiếp trước đăng lưới giết hại cá. 36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì? Ác tâm lấn hiếp mưu hại người. 37. Đời nay lùn bé do nhân gì? Kiếp trước xem kinh để dưới đất. 3 38. Nay thường thổ huyết do nhân gì? Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. 4 39. Đời nay ngu điếc do nhân gì? Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe. 40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì? Xông hơi thịt cá trước bàn Phật. 41. Thân có mùi hôi do nhân gì? Xưa bán hương thơm trọn dối gian. 42. Đời nay chết treo do nhân gì? Kiếp trước đem dây săn bẫy thú. 43. Quan, quả, cô độc do nhân gì? Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người. 44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? Cân non, già, thiếu lòng gian xảo. 45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì? Kiếp trước gây oan tạo đối đầu. Muôn việc mình làm lại mình chịu Thọ khổ địa ngục oán trách ai? Đừng nói nhân qủa người không thấy. Xa trả con cháu, gần trả mình. 46. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước. Sẽ tin bố thí với trì trai. Kiếp trước tu nhân nay hưởng quả. Đời nầy tu tích để về sau. Nếu ai hủy báng kinh Nhân Quả Kiếp sau đọa lạc mất thân người. Kẻ nào thọ trì kinh Nhân Quả. Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh. Kẻ nào biên chép kinh Nhân Quả, Truyền đời tu học đạo nhà hưng. Ai mà mang đội kinh Nhân Quả, Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân. Nếu người giản nói kinh nhân qủa Đời đời kiếp kiếp được thông minh Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Quả Đời sau người thấy sinh cung kính. Người nào ấn tống kinh Nhân Quả. Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời trước. Chính sự thọ hưởng của đời nay. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời sau. Chính sự gây nhân của kiếp này, Nếu như nhân quả không cảm ứng, Do đâu Mục Liên cứu được mẹ? Người nào tin sâu kinh Nhân Quả. Đồng sinh Tây phương cõi Cực Lạc. Nhân quả ba đời nói không hết. Thiên long chẳng bỏ ý người lành. Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn, Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn. Gởi kho bền chắc không hư mất, 5 Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng. Muốn biết nhân đời trước, Xem sự hưởng đời nay, Muốn biết quả đời sau, Xem việc làm kiếp này. Chú thích 1 Nhà dưỡng Lão, cô nhi. 2 Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên dìm cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra. 3 Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn. 4 Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi Tịnh tam nghiệp chân ngôn Um Soa Pha Va Suýt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suýt đa hàm 7 biến Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma. 5 Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ý nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho. Việt dịch HT Thích Thiền Tâm Nguồn Hits 236 Post Views 923
KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT Dịch Từ Phạn sang Hán Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Từ Hán sang Việt Tỳ Kheo Thích Duy Lực Từ Ân Thiền ường Hoa Kỳ Xuất Bản Chư Kinh Tập Yếu Kinh Kim Cang, Bát Nhã Tâm Kinh mp3 Mục Lục Lời Dịch Giả Phần I 1. Pháp Hội Nhân Do 2. Thiện Hiện Khởi Thỉnh 3. Đại Thừa Chánh Tông 4. Diệu Hạnh Vô Trụ 5. Như Lý Thật Kiến 6. Chánh Tín Hy Hữu 7. Vô Đắc Vô Thuyết 8. Y Pháp Xuất Sanh 9. Nhất Tướng Vô Tướng Phần Hai 10. Trang Nghiêm Tịnh Độ 11. Vô Vi Phước Thắng 12. Tôn Trọng Chánh Giáo 13. Như Pháp Thọ Trì 14. Ly Tướng Tịch Diệt 15. Trì Kinh Công Đức 16. Năng Tịnh Nghiệp Chướng 17. Cứu Kính Vô Ngã Phần Ba 18. Nhất Thể Đồng Quán 19. Pháp Giới Thông Hóa 20. Ly Sắc Ly Tướng 21. Phi Thuyết Sở Thuyết 22. Vô Pháp Khả Đắc 23. Tịnh Tâm Hành Thiện 24. Phước Trí Vô Tỷ 25. Hóa Vô Sở Hóa 26. Pháp Thân Phi Tướng 27. Vô Đoạn Vô Diệt 28. Bất Thọ Bất Tham 29. Oai Nghi Tịch Tịch 30. Nhất Hợp Tướng Lý 31. Tri Kiến Bất Sanh 32. Ứng Hóa Phi Chơn Lời Dịch giả Kinh Kim Cang là một phẩm trong Kinh Đại Bát Nhã 600 quyển. Kinh này từ đầu đến cuối đều hiển bày nghĩa ba câu, nếu đọc giả thấu suốt được nghĩa ba câu của Kinh này, thì đối với tất cả kinh đại thừa liễu nghĩa đều thấu suốt cả. Nghĩa ba câu cũng như nghĩa tứ cú kệ, phá hết tất cả tứ tướng chấp thật, chẳng hai chẳng khác. Nói chấp thật tức là lọt vào tương đối, thuộc về biên kiến, bất cứ chấp có là thật, chấp không là thật, chấp chơn là thật, chấp giả là thật, đều là chấp thật cả. Tiếng Hán có văn ngôn và bạch thoại. Văn ngôn đời xưa quá súc tích, thường hay có ý mà chẳng có lời, người xưa nói “đọc chỗ chẳng có chữ” là vậy. Chúng tôi gặp những trường hợp này thì thêm lời vào để sáng tỏ ý nghĩa ẩn trong văn, những danh từ tiếng Hán mà tiếng Việt ít dùng, lại chẳng thể dịch ra tiếng Việt thì chúng tôi ghi chú, còn những nghĩa lý thâm sâu khó hiểu thì chúng tôi lược giải thêm. Vì đọc giả cảm thấy phần 27 còn hơi tối nghĩa, nên kỳ in này chúng tôi lược giải thêm để sáng tỏ nghĩa kinh trong phần này. Nói tóm lại, chúng tôi dịch Kinh này là mong giúp cho đọc giả dễ hiểu nghĩa kinh, theo đó tu hành để đưa đến kiến tánh giải thoát. Thích Duy Lực Kinh Kim Cang Phần 1 1. Pháp Hội Nhân Do Tôi nghe như vầy, một thuở Phật ở nước Xá Vệ, nơi tịnh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng chúng Đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị. Bấy giờ đến giờ ăn, Thế Tôn đắp mang y bát, vào đại thành Xá Vệ, theo thứ tự khất thực từng nhà trong thành xong, trở về chổ ở thọ trai, rồi cất y bát, đại chúng rửa chân, trải tọa cụ cùng ngồi. 2. Thiện Hiện Khởi Thỉnh Tu Bồ Đề là tiếng Phạn, nghĩa Hán là Thiện Hiện. Khi ấy, trưởng lão Tu Bồ Đề ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật rằng -Hy hữu Thế Tôn! Như Lai khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, khéo phó chúc cho các Bồ Tát. Bạch Thế Tôn! Những thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên an trụ tâm như thế nào? Hàng phục tâm như thế nào? Phật bảo Lành thay! Lành thay! Tu Bồ Đề! Theo như ngươi nói, Như Lai khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, khéo phó chúc cho các Bồ Tát. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi nói rõ. Những thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên an trụ tâm như vầy, hàng phục tâm như vầy. -Bạch Thế Tôn, con rất mong được nghe. 3. Đại Thừa Chánh Tông Phật bảo Tu Bồ Đề-Các Bồ Tát Ma Ha Tát nên hàng phục tâm như vầy Tất cả các loài chúng sanh, hoặc noãn sanh, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc hữu sắc, hoặc vô sắc, hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc phi hữu tướng, hoặc phi vô tướng, ta đều khiến vào Vô Dư Niết Bàn mà diệt độ. Diệt độ vô lượng vô số chúng sanh như thế, mà thật ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả. Tại sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng ắt chẳng phải Bồ Tát. Lược Giải Tứ tướng có hai thứ 1 Mê Thức Tứ Tướng của phàm phu Chấp thật cái thân ngũ uẩn này là ta, gọi là ngã tướng. Bỏ ngã tướng chấp vào toàn nhân loại gọi là nhơn tướng. Bỏ nhân loại chấp vào toàn chúng sanh gọi là chúng sanh tướng. Bỏ chúng sanh tướng cho là chỉ có Chơn Như Phật tánh vĩnh viễn tồn tại trong thời gian gọi là thọ giả tướng thọ là thời gian. 2 Mê Trí Tứ Tướng của bậc thánh Bậc thánh tâm biết có sở chứng, dù chứng đến thanh tịnh Niết Bàn đều thuộc về ngã tướng. Nay ngộ thêm một bậc, biết chẳng phải ta chứng, siêu việt tất cả chứng, nhưng còn cái tâm năng ngộ gọi là nhơn tướng. Nay tiến thêm một bậc nữa, liễu tri năng chứng năng ngộ là ngã tướng nhơn tướng, chỗ ngã tướng nhơn tướng chẳng thể đến năng chứng năng ngộ chẳng thể đến, chỉ còn tâm liễu tri, gọi là chúng sanh tướng. Rồi tiến thêm một bậc nữa, chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ một giác thể thanh tịnh, gọi là cứu kính giác, tất cả tịch diệt, cũng gọi là Niết Bàn. Nếu còn trụ nơi Niết Bàn thì mạng căn chưa dứt, gọi là thọ giả tướng. Lược giải hết 4. Diệu Hạnh Vô Trụ -Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ Tát ở nơi các pháp, ưng vô sở trụ mà hành việc bố thí, tức là chẳng trụ sắc bố thí, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí nên chẳng trụ nơi tướng như thế. Tại sao? Nếu Bồ Tát chẳng trụ nơi tướng bố thí thì phước đức chẳng thể suy lường. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Hư không bên phương đông có thể suy lường chăng? -Bạch Thế Tôn, không. -Tu Bồ Đề! Hư không bên các phương nam, tây, bắc và trên, dưới có thể suy lường được chăng? -Bạch Thế Tôn, không. -Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí chẳng trụ nơi tướng, phước đức cũng như vậy, chẳng thể suy lường. Tu Bồ Đề! Bồ Tát cần an trụ tâm như ta đã bảo. 5. Như Lý Thật Kiến -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể nhờ thân tướng mà thấy Như Lai chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Chẳng thể nhờ thân tướng thấy được Như Lai. Tại sao? Như Lai nói thân tướng tức phi thân tướng. Phật bảo Tu Bồ Đề -Phàm tất cả tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng phi tướng, tức là thấy Như Lai. Lược Giải Ý Phật ở đây là phá chấp tướng. Nếu thấy các pháp có tướng là chấp vào tướng có. Nếu thấy các pháp không tướng là chấp vào tướng không. Nên ở đây Kinh nói “các tướng phi tướng”, mà nếu chấp vào phi tướng cho là chẳng phải tướng, cho là không tướng thì vẫn còn chấp tướng. Lược giải hết 6. Chánh Tín Hy Hữu Tu Bồ Đề Thưa rằng -Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh được nghe những lời nói, văn tự kể trên có thể sanh lòng tin chơn thật chăng? Phật bảo -Tu Bồ Đề, đừng nói vậy! Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm về sau, từ tượng pháp cho đến mạt pháp, nếu có người tu phước trì giới đối với lời nói, văn tự kể trên được sanh lòng tin, cho đó là thật. Phải biết người ấy đã nghe lời nói văn tự này, cho đến được một niệm sanh khởi lòng tin trong sạch, là vì đã từng gieo trồng thiện căn nơi muôn ngàn vô lượng Phật, chứ chẳng phải gieo trồng thiện căn nơi một Phật, hoặc ba, bốn, năm Phật. Tu Bồ Đề! Như Lai biết rõ, thấy rõ những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức như thế. Tại sao? Vì những chúng sanh ấy chẳng còn có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, chẳng chấp pháp tướng, cũng chẳng chấp phi pháp tướng. Tại sao? Vì những chúng sanh ấy nếu khởi tâm chấp tướng tiền trần tức là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp pháp tướng pháp trần cũng là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp phi pháp tướng là bóng phân biệt của pháp trần, cũng là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Vì thế chẳng nên chấp pháp, chẳng nên chấp phi pháp. Do nghĩa này Như Lai thường nói Các Tỳ Kheo phải biết lời thuyết pháp của ta ví như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè; vậy pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp! 7. Vô Đắc Vô Thuyết -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chăng? Như Lai có thuyết pháp chăng? Tu Bồ Đề đáp -Như con hiểu nghĩa của Phật nói thì chẳng có pháp nhất định gọi là pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng chẳng có pháp nhất định cho Như Lai thuyết. Tại sao? Vì pháp của Như Lai thuyết đều chẳng thể chấp thật, chẳng thể nói là pháp, là phi pháp hay phi phi pháp. Tại sao? Vì tất cả hiền thánh đều dựa theo pháp vô vi mà nói có sai biệt. Lược Giải Tất cả hiền thánh đều dựa theo pháp vô vi mà nói có sai biệt Pháp vô vi tức là pháp vô sanh, chẳng thể tu chứng, chẳng thể suy lường, chẳng thể diễn tả. Nay dựa theo đường đi vô vi, vì chưa đến chỗ vô vi nên mới có đủ thứ sai biệt như thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, cho đến thập địa, đẳng giác, nếu đã đến diệu giác tức là chỗ vô vi thì chẳng còn sai biệt. Lược giải hết 8. Y Pháp Xuất Sanh -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như có người đem thất bửu đầy khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới dùng để bố thí, người ấy được phước đức nhiều chăng? Tu Bồ Đề đáp -Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Tại sao? Phước đức ấy tức phi phước đức tánh, nên Như Lai nói là phước đức nhiều. Phật bảo -Nếu có người thọ trì tín thọ mà thực hành Kinh này, cho đến chỉ thực hành theo tứ cú kệ rồi giảng cho người khác nghe, thì phước đức lại nhiều hơn người kia. Tại sao? Tu Bồ Đề! Tất cả chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều từ Kinh này ra. Tu Bồ Đề, gọi là Phật pháp, tức phi Phật pháp. Ghi Chú Tứ Cú Kệ Có là cú thứ nhất, Không là cú thứ nhì, Cũng có cũng không là cú thứ ba, Chẳng có chẳng không là cú thứ tư. Chẳng lọt vào tứ cú là thực hành theo tứ cú kệ. Ghi chú hết 9. Nhất Tướng Vô Tướng -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Tu Đà Hoàn có thể nghĩ rằng “Ta đắc quả Tu Đà Hoàn” chăng? Tu Bồ Đề đáp -Bạch Thế Tôn, không ạ. Tại sao? Tu Đà Hoàn gọi là Nhập Lưu mà vô sở nhập; chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là Tu Đà Hoàn. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Tư Đà Hàm có thể nghĩ rằng “Ta đắc quả Tư Đà Hàm” chăng? -Bạch Thế Tôn, không ạ. Tại sao? Tư Đà Hàm gọi là Nhất Vãng Lai mà thật chẳng vãng lai, ấy gọi là Tư Đà Hàm. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? A Na Hàm có thể nghĩ rằng “Ta đắc quả A Na Hàm” chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Tại sao? A Na Hàm gọi là Bất Lai mà thật chẳng phải bất lai, ấy gọi là A Na Hàm. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? A La Hán có thể nghĩ rằng “Ta đắc đạo A La Hán” chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Tại sao? Thật chẳng có pháp gọi là A La Hán. Thế Tôn! Nếu A La Hán nghĩ rằng “Ta đắc đạo A La Hán”, tức là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Thế Tôn! Phật nói con đắc Vô Tranh Tam Muội, là hạng nhất trong loài người, là hạng nhất trong bậc ly dục A La Hán. Thế Tôn! Nhưng con nghĩ rằng con là ly dục A La Hán. Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành, nên mới gọi Tu Bồ Đề là hành giả thanh tịnh hạnh. Hết Phần Một Kinh Kim Cang Phần 2 10. Trang Nghiêm Tịnh Độ Phật bảo -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Xưa kia Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng có đắc pháp gì chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng thật vô sở đắc. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Tại sao? Nói trang nghiêm Phật độ, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm nghĩa ba câu. -Cho nên Tu Bồ Đề! Chư Bồ Tát Ma Ha Tát nên sanh tâm trong sạch như thế, là chẳng nên khởi tâm trụ sắc, chẳng nên khởi tâm trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, ưng vô sở trụ mà sanh kỳ tâm. -Tu Bồ Đề! Ví như có người thân như núi chúa Tu Di, ý ngươi thế nào? Thân ấy có đại chăng? -Bạch Thế Tôn, rất đại. Tại sao? Phật nói phi thân thị danh đại thân Chữ đại ở đây là siêu việt số lượng. Lược Giải Nói trang nghiêm Phật độ, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. Đây là nghĩa ba câu trong Kinh này Câu thứ nhất cho trang nghiêm Phật độ là thật; câu thứ nhì dùng chữ phi để phá cái chấp thật của câu thứ nhất; câu thứ ba cho tất cả tên gọi đều là giả danh. Câu thứ nhất trang nghiêm Phật độ là giả danh, câu thứ nhì phi trang nghiêm cũng là giả danh, câu thứ ba thị danh trang nghiêm cũng là giả danh. Vậy giả danh thì chẳng có nghĩa thật, cho nên Phật nói “Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.” Lược giải hết 11. Vô Vi Phước Thắng -Tu Bồ Đề! Như có nhiều sông Hằng bằng số cát trong một sông Hằng. Ý ngươi thế nào? Số cát ở trong những sông Hằng ấy có phải nhiều chăng? Tu Bồ Đề đáp -Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Chỉ những sông Hằng ấy cũng nhiều vô số rồi, huống chi là cát. -Tu Bồ Đề! Nay ta nói thật cho nghe, như có thiện nam tín nữ, đem thất bửu chứa đầy các đại thiên thế giới bằng số cát kể trên dùng để bố thí, được phước nhiều chăng? -Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Phật bảo Tu Bồ Đề -Nếu có thiện nam tín nữ thọ trì Kinh này, cho đến chỉ thực hành theo tứ cú kệ, rồi giảng cho người khác nghe, thì phước đức lại nhiều hơn người kia. 12. Tôn Trọng Chánh Giáo -Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bất cứ nơi nào có thuyết Kinh này, cho đến chỉ thuyết tứ cú kệ, phải biết nơi đó tất cả thế gian, trời, người, A Tu La đều nên cúng dường như tháp miếu của Phật, huống chi có người được thọ trì đọc tụng cả Kinh này. Tu Bồ Đề! Nên biết người ấy thành tựu pháp hy hữu tối thượng hạng nhất. Vậy phàm nơi nào có kinh điển này tức là có Phật, được Phật tử tôn trọng. 13. Như Pháp Thọ Trì Khi ấy Tu Bồ Đề thưa rằng -Bạch Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên gì? Chúng con phải thọ trì như thế nào? Phật bảo Tu Bồ Đề -Kinh này tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, ngươi cứ theo tên gọi thọ trì. Tại sao? Tu Bồ Đề, Phật nói Bát Nhã Ba La Mật, tức phi Bát Nhã Ba La Mật, thị danh Bát Nhã Ba La Mật đây cũng là nghĩa ba câu đã được giải ở trên. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có thuyết pháp chăng? -Bạch Thế Tôn, Như Lai vô sở thuyết. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Tất cả vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới có nhiều chăng? Tu Bồ Đề thưa -Bạch Thế Tôn, rất nhiều. -Tu Bồ Đề! Như Lai nói những vi trần ấy tức phi vi trần, thị danh vi trần. Như Lai nói thế giới tức phi thế giới, thị danh thế giới nghĩa ba câu. Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể nhờ ba mươi hai tướng thấy Như Lai chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Chẳng thể nhờ ba mươi hai tướng thấy được Như Lai. Tại sao? Như Lai nói ba mươi hai tướng tức là phi tướng, thị danh ba mươi hai tướng nghĩa ba câu. -Tu Bồ Đề! Như có thiện nam tín nữ đem thân mạng nhiều bằng số cát sông Hằng dùng để bố thí; với người thọ trì kinh này, cho đến chỉ thực hành theo tứ cú kệ và giảng cho người khác nghe, thì được phước hơn người kia rất nhiều. 14. Ly Tướng Tịch Diệt Bấy giờ Tu Bồ Đề nghe Phật thuyết Kinh này, hiểu thấu nghĩa thâm sâu, xúc động chảy nước mắt mà bạch Phật rằng -Hy hữu Thế Tôn! Phật thuyết kinh điển thâm sâu như thế, con từ khi được huệ nhãn đến nay, chưa từng được nghe kinh như vậy. Bạch Thế Tôn! Lại nếu có người nghe được Kinh này lòng tin trong sạch, liền sanh thật tướng, phải biết ngươì ấy thành tựu được công đức hy hữu hạng nhất. Bạch Thế Tôn! Đây nói thật tướng tức là phi tướng, cho nên Như Lai nói giả danh thật tướng nghĩa ba câu. Bạch Thế Tôn! Nay con được nghe Kinh này tín, giải, thọ trì chẳng cho là khó. Nếu năm trăm năm về sau, đời vị lai có chúng sanh nghe được Kinh này, tín, giải, thọ trì thì người ấy là hy hữu hạng nhất. Tại sao? Vì người ấy vô ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tại sao? Vì ngã tướng tức là phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng cũng là phi tướng. Tại sao? Lìa tất cả chư tướng, tức gọi là chư Phật. Phật bảo Tu Bồ Đề -Đúng thế! Đúng thế! Lại nếu có người được nghe Kinh này mà chẳng kinh ngạc, chẳng khiếp sợ, phải biết người ấy rất là hy hữu. Tại sao? Tu Bồ Đề! Như Lai nói đệ nhất Ba La Mật, tức phi đệ nhất Ba La Mật, thị danh đệ nhất Ba La Mật nghĩa ba câu. Tu Bồ Đề! Như Lai nói nhẫn nhục Ba La Mật, tức phi nhẫn nhục Ba La Mật, thị danh nhẫn nhục Ba La Mật. Tại sao? Tu Bồ Đề! Như ta xưa kia bị vua Ca Lợi xẻ nát thân thể, lúc đó ta vô ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tại sao? Vì xưa kia khi ta bị phanh xé thân thể từng miếng, nếu có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì phải sanh tâm sân hận. Tu Bồ Đề! Nhớ lại kiếp quá khứ, ta làm tiên nhẫn nhục trãi qua năm trăm đời, những đời ấy đều vô ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tu Bồ Đề! Vì thế Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải lìa tất cả tướng. Chẳng nên sanh tâm trụ nơi sắc, và cũng chẳng nên sanh tâm trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên sanh tâm vô sở trụ; nếu tâm có trụ tức là phi trụ, thị danh tâm trụ nghĩa ba câu. Cho nên Phật nói tâm của Bồ Tát chẳng nên trụ nơi sắc bố thí, chẳng nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích tất cả chúng sanh, cần phải bố thí như thế. Như Lai nói Tất cả các tướng tức là phi tướng, lại nói Tất cả chúng sanh tức phi chúng sanh. Tu Bồ Đề! Như Lai là người chơn ngữ, thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ, bất dị ngữ. Tu Bồ Đề! Pháp của Như Lai chứng đắc, ấy là pháp vô thật vô hư. Tu Bồ Đề! Nếu tâm của Bồ Tát trụ nơi pháp mà hành việc bố thí, thì cũng như người vào chỗ tối chẳng thấy gì cả. Nếu tâm của Bồ Tát chẳng trụ nơi pháp mà hành việc bố thí, thì cũng như người có mắt dưới ánh sáng mặt trời, tất cả thấy rõ đủ thứ sắc tướng. Tu Bồ Đề! Về đời sau này, nếu có thiện nam tín nữ thọ trì, đọc tụng Kinh này, thì trí huệ của Như Lai biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy, đều được thành tựu công đức vô lượng vô biên. Lược Giải Ngũ ngữ Chơn ngữ, thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ, bất dị ngữ. Phật thuyết chơn ngữ là nghĩa chung với nhị thừa có sanh Tụ để diệt, có Niết Bàn để chứng, thật ngữ là nghĩa chung với Bồ Tát nghĩa đại thừa, sanh tử Niết Bàn đều như hoa đốm trên không, như ngữ là nghĩa chung với tam thừa trí huệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả, bất cuống ngữ chẳng dối tức là vô hư; bất dị ngữ thấy trước việc chưa đến gọi là bất dị, tức là vô thật, nên Phật nói pháp ấy là vô thật vô hư. Lược giải hết 15. Trì Kinh Công Đức -Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tín nữ, buổi sáng bố thí thân thể nhiều bằng số cát sông Hằng, buổi trưa lại bố thí thân thể nhiều bằng số cát sông Hằng, buổi chiều cũng bố thí thân thể nhiều bằng số cát sông Hằng, cứ bố thí thân thể như thế cho đến vô lượng trăm, nghìn, muôn ức kiếp. Với người nghe kinh điển này lòng tin vững chắc, thì được phước nhiều hơn người kia, huống chi lại còn biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng giải cho người khác nghe. Tu Bồ Đề! Nói tóm lại, Kinh này có công đức vô biên, bất khả tư nghì, chẳng thể suy lường. Như Lai vì người phát tâm đại thừa và người phát tâm tối thượng thừa mà thuyết. Nếu có người nào hay thọ trì đọc tụng, phổ biến cho người, thì Như Lai biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy đều được thành tựu vô biên công đức, bất khả tư nghì, chẳng thể suy lường. Những người như thế mới là gánh vác được đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai. Tại sao? Tu Bồ Đề! Nếu người ưa pháp tiểu thừa, dính mắc ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến chẳng ngoài sáu mươi hai kiến chấp, thì chẳng thể tín thọ, đọc tụng Kinh này và giảng giải cho người khác nghe. Tu Bồ Đề! Bất cứ nơi nào, nếu có Kinh này, tất cả thế gian,trời, người, A Tu La, đều nên cúng dường. Phải biết chỗ đó chính là tháp Phật, đều nên cung kính lễ bái, dùng các thứ hương hoa rải quanh chỗ đó. 16. Năng Tịnh Nghiệp Chướng -Lại nữa, Tu Bồ Đề! Như thiện nam tín nữ thọ trì đọc tụng Kinh này, nếu bị người khinh rẽ, thì những nghiệp nhân đời trước đáng lẽ phải đọa ác đạo, vì nay bị người đời khinh rẽ, nên những nghiệp nhân đời trước liền được tiêu diệt, lại còn được đắc đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Ta nhớ đời quá khứ, trước Phật Nhiên Đăng vô lượng vô số kiếp, được gặp tám trăm bốn nghìn muôn ức na do tha chư Phật, ta đều cúng dường thờ phụng, chẳng bỏ sót Phật nào. Lại, nếu có người đời mạt kiếp hay thọ trì đọc tụng Kinh này, được nhiều công đức, đem công đức cúng dường chư Phật của ta so với công đức ấy, chẳng bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn ức, cho đến toán số, thí dụ đều chẳng thể sánh bằng. Tu Bồ Đề! Nếu ở đời mạt kiếp, có thiện nam tín nữ thọ trì đọc tụng Kinh này, được công đức vô lượng. Nếu ta kể ra hết, hoặc có người nghe rồi tâm liền cuồng loạn, nghi ngờ chẳng tin. Tu Bồ Đề! Phải biết ý nghĩa Kinh này bất khả tư nghì, quả báo cũng bất khả tư nghì. 17. Cứu Kính Vô Ngã Lúc bấy giờ, Tu Bồ Đề thưa rằng -Bạch Thế Tôn! Những thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên an trụ tâm như thế nào? Hàng phục tâm như thế nào? Phật bảo Tu Bồ Đề – Những thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên sanh tâm như thế này Ta phải diệt độ cho tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà chẳng có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì chẳng phải Bồ Tát. Tại sao? Tu Bồ Đề! Vì thật chẳng có pháp gì để phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Theo con hiểu nghĩa của Phật nói, Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng thật chẳng có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật bảo -Đúng thế! Đúng thế! Tu Bồ Đề! Như Lai thật chẳng đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nếu Như Lai có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho ta rằng “Về đời sau ngươi sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” Bởi thật chẳng có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta rằng “Về đời sau ngươi sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” Tại sao? Nói Như Lai tức là các pháp như nghĩa. Nếu có người nói rằng Như lai đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là chẳng đúng như nghĩa. Tu Bồ Đề! Vì thật ra Phật chẳng đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nói Như Lai đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong đó vô thật vô hư. Cho nên Như Lai nói “Tất cả các pháp đều là Phật pháp.” Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, tức phi tất cả pháp, thị danh tất cả pháp nghĩa ba câu. Tu Bồ Đề! Ví như thân người cao lớn đã kể trên, nghĩa là siêu việt số lượng. Tu Bồ Đề thưa rằng -Bạch Thế Tôn! Như Lai nói thân người cao lớn, tức phi thân lớn, thị danh thân lớn nghĩa ba câu. -Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng như thế. Nếu nói rằng ta phải diệt độ vô lượng chúng sanh thì chẳng thể gọi là Bồ Tát. Tại sao? Tu Bồ Đề! Thật chẳng có pháp gọi là Bồ Tát. Cho nên Phật thuyết tất cả pháp vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả. Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nói rằng ta phải trang nghiêm cõi Phật thì chẳng thể gọi là Bồ Tát. Tại sao? Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm nghĩa ba câu. Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát thông đạt pháp vô ngã thì Như Lai nói ấy mới gọi là Chơn Bồ Tát. Ghi Chú Các pháp như nghĩa là đúng như thật nghĩa, thật nghĩa vô nghĩa cũng như Phật nói “thật tướng vô tướng ” vậy. Ghi chú hết Hết Phần Hai Kinh Kim Cang Phần 3 18. Nhất Thể Đồng Quán -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có nhục nhãn chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có nhục nhãn. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có thiên nhãn chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có thiên nhãn. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có huệ nhãn chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có huệ nhãn. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có pháp nhãn chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có pháp nhãn. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có Phật nhãn chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có Phật nhãn. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như số cát trong sông Hằng kia, Phật nói là cát chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai nói là cát. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như có những sông Hằng nhiều bằng số cát trong một sông Hằng, rồi lại có cõi Phật nhiều bằng số cát trong những sông Hằng ấy, như thế có phải là nhiều chăng? -Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Phật bảo Tu Bồ Đề -Bao nhiêu thứ tâm niệm của chúng sanh trong cõi Phật ấy, Như Lai đều biết rõ. Tại sao? Như Lai nói các tâm, đều là phi tâm, thị danh là tâm nghĩa ba câu. Tại sao? Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc Phá chấp tâm là thật có. Lược Giải Để lược giải nghĩa Ngũ nhãn, có bài kệ rằng Thiên nhãn thông phi ngại, Nhục nhãn ngại phi thông. Pháp nhãn duy quán tục, Huệ nhãn liễu tri không. Phật nhãn như thiên nhật, Chiếu dị thể hoàn đồng. Dịch nghĩa Thiên nhãn thông chẳng ngại, Nhục nhãn ngại chẳng thông. Pháp nhãn hay quán tục tục đế, Huệ nhãn thấu rõ không chơn đế. Phật nhãn như ngàn nhật mặt trời, Chiếu dị khác thể vẫn đồng. Lược giải hết 19. Pháp Giới Thông Hóa -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Nếu có người đem thất bửu chất đầy tam thiên đại thiên thế giới dùng để bố thí, người ấy nhờ nhân duyên đó, được phước đức nhiều chăng? -Bạch Thế Tôn, đúng thế! Người ấy nhờ nhân duyên đó, được phước đức rất nhiều. -Tu Bồ Đề! Nếu phước đức có thật thì Như Lai chẳng nói được phước đức nhiều. Vì phước đức vốn chẳng thật nên Như Lai nói được phước đức nhiều. 20. Ly Sắc Ly Tướng -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể nhờ sắc thân đầy đủ thấy Phật chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Chẳng nên nhờ sắc thân đầy đủ mà thấy Phật. Tại sao? Như Lai nói sắc thân đầy đủ, tức phi sắc thân đầy đủ, thị danh sắc thân đầy đủ nghĩa ba câu. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể nhờ các tướng đầy đủ thấy Như Lai chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Chẳng nên nhờ các tướng đầy đủ mà thấy Như Lai. Tại sao? Như Lai nói các tướng đầy đủ, tức phi các tướng đầy đủ, thị danh các tướng đầy đủ nghĩa ba câu. 21. Phi Thuyết Sở Thuyết -Tu Bồ Đề! Ngươi chớ nói Như Lai có nghĩ rằng “Ta phải có thuyết pháp,” đừng nghĩ vậy. Tại sao? Nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Phật, chẳng hiểu lời nói của ta. Tu Bồ Đề! Nói thuyết pháp là vô pháp để thuyết, thị danh thuyết pháp nghĩa ba câu. Bấy giờ, Huệ Mạng Tu Bồ Đề thưa Phật rằng -Bạch Thế Tôn! Những chúng sanh đời vị lai nghe được pháp này sanh lòng tin chăng? Phật bảo -Tu Bồ Đề! Những chúng sanh ấy là phi chúng sanh, phi bất chúng sanh. Tại sao? Tu Bồ Đề! Chúng sanh cho là chúng sanh, Như Lai nói phi chúng sanh, thị danh chúng sanh nghĩa ba câu. Ghi Chú Huệ Mạng Pháp thân là thể của tự tánh, huệ mạng là dụng của tự tánh; sự nghiệp hoằng pháp độ sanh chẳng gián đoạn gọi là huệ mạng. Ghi chú hết 22. Vô Pháp Khả Đắc Tu Bồ Đề thưa rằng -Bạch Thế Tôn! Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là vô sở đắc chăng? -Đúng thế! Đúng thế! Tu Bồ Đề! Ta ở nơi pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thật chẳng đắc một chút gì cả, thị danh Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nghĩa ba câu. 23. Tịnh Tâm Hành Thiện -Lại nữa, Tu Bồ Đề! Pháp ấy bình đẳng, chẳng có cao thấp, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả mà tu tất cả thiện pháp, thì liền được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Như Lai nói thiện pháp tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp nghĩa ba câu. 24. Phước Trí Vô Tỷ -Tu Bồ Đề! Nếu có người đem thất bửu chất đầy bằng núi Tu Di chúa trong tam thiên đại thiên thế giới dùng để bố thí, với người thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật này, cho đến chỉ hành theo tứ cú kệ, và giảng giải cho người khác nghe, thì phước đức bố thí so với phước đức thọ trì chẳng bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn ức, cho đến toán số thí dụ cũng chẳng thể sánh bằng. 25. Hóa Vô Sở Hóa -Tu Bồ Đề! Các ngươi chớ cho Như Lai có nghĩ rằng “Ta phải độ chúng sanh.” Tu Bồ Đề, đừng nghĩ vậy! Tại sao? Thật chẳng có chúng sanh mà Như Lai độ. Nếu nói Như Lai có độ chúng sanh, thì Như Lai mắc vào bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Tu Bồ Đề! Như Lai nói có ngã tức phi có ngã, mà phàm phu chấp là có ngã. Tu Bồ Đề! Như Lai nói phàm phu tức phi phàm phu, thị danh phàm phu nghĩa ba câu. 26. Pháp Thân Phi Tướng -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai chăng? Tu Bồ Đề đáp -Đúng thế! Đúng thế! Có thể dùng ba mươi hai tướng quán Như Lai. Phật bảo Tu Bồ Đề -Nếu dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai sao? Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng Tu Bồ Đề thưa rằng – Bạch Thế Tôn, như con hiểu ý nghĩa lời Phật, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai. Dịch nghĩa Nếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta. Là người hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai. Lược Giải Nếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta. Là người hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai. Chữ Ta ở đây là tự tánh Phật. Tự tánh bất nhị, chẳng có năng sở, nên chẳng phải sở thấy sở cầu. Nếu đuổi theo căn trần để thấy để cầu là hành theo tà đạo, chẳng thể đạt đến kiến tánh. Lược giải hết 27. Vô Đoạn Vô Diệt -Tu Bồ Đề! Nếu ngươi nghĩ rằng “Như Lai vì chẳng nhờ tướng đầy đủ mới đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,” Tu Bồ Đề, đừng nghĩ như vậy! Nói Như Lai vì chẳng nhờ tướng đầy đủ mới đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là chẳng đúng. Tu Bồ Đề! Nếu ngươi nghĩ như thế thì người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là nói các pháp đoạn diệt sao! Đừng nghĩ vậy. Tại sao? Vì người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nơi pháp chẳng nói tướng đoạn diệt. Lược Giải – phần 20 nói “Chẳng nên nhờ các tướng đầy đủ mà thấy Như Lai” là phá chấp sắc tướng. Phần 27 nói “Chớ nên nghĩ rằng Như Lai vì chẳng nhờ tướng đầu đủ mới đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” là phá chấp phải lìa sắc tướng. Vì chấp sắc tướng và chấp lìa sắc tướng đều chẳng thể đạt đến kiến tánh. Lược giải hết 28. Bất Thọ Bất Tham -Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát đem thất bửu chất đầy những thế giới như số cát sông Hằng dùng để bố thí, với Bồ Tát biết tất cả pháp vô ngã, được thành tựu pháp nhẫn lòng tin vững chắc, thì Bồ Tát này được công đức hơn Bồ Tát kia. Tại sao? Tu Bồ Đề, vì các Bồ Tát này chẳng thọ phước đức. Tu Bồ Đề thưa rằng -Bạch Thế Tôn! Sao nói Bồ Tát chẳng thọ phước đức? -Tu Bồ Đề! Vì Bồ Tát làm việc phước đức chẳng sanh khởi lòng tham, cho nên nói chẳng thọ phước đức. 29. Oai Nghi Tịch Tịch -Tu Bồ Đề! Nếu có người nói rằng “Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm” thì người ấy chẳng hiểu được ý nghĩa lời ta nói. Tại sao? Vì Như Lai chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai. Lược Giải Tự tánh cùng khắp không gian và thời gian, khắp không gian thì chẳng có khứ lai, nên gọi là Như Lai, khắp thời gian thì chẳng có gián đoạn chẳng có sanh diệt, nên gọi là Niết Bàn. Lược giải hết 30. Nhất Hợp Tướng Lý -Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tín nữ, đem cõi tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát ra thành vi trần, ý ngươi thế nào? Những vi trần chúng có phải nhiều chăng? Tu Bồ Đề thưa rằng -Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Tại sao? Nếu những vi trần chúng là thật có thì Phật chẳng nói là vi trần chúng. Tại sao? Vì Phật nói vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng nghĩa ba câu. Bạch Thế Tôn! Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới. Tại sao? Nếu thế giới thật có, tức là nhất hợp tướng. Như Lai nói nhất hợp tướng, tức phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp tướng nghĩa ba câu. 31. Tri Kiến Bất Sanh -Tu Bồ Đề! Nếu có người nói Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến là thật, Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Người ấy có hiểu được ý nghĩa lời ta nói chăng? -Bạch Thế Tôn, không! Người ấy chẳng hiểu ý nghĩa của Như Lai nói. Tại sao? Như Lai nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến nghĩa ba câu. -Tu Bồ Đề! Người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với tất cả pháp nên tri như thế, kiến như thế, tín giải như thế, chẳng sanh pháp tướng. Tu Bồ Đề! Như Lai nói pháp tướng, tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng nghĩa ba câu. 32. Ứng Hóa Phi Chơn -Tu Bồ Đề! Nếu có người đem thất bửu chất đầy vô lượng A Tăng Kỳ thế giới dùng để bố thí, với thiện nam tín nữ phát tâm Bồ Đề thọ trì đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ hành theo tứ cú kệ, và giảng giải cho người khác nghe, thì phước đức hơn người kia. Vậy phải giảng giải như thế nào? Nên giảng giải như thế này Như như bất động, chẳng nên chấp nơi sao? Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng, huyễn, bào, ảnh, Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán. Dịch nghĩa Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, bóng, Như sương mù, điện chớp, Nên quán theo như thế. . Phật thuyết Kinh này xong, trưởng lão Tu Bồ Đề với các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và tất cả thế gian, trời, người, A Tu La, nghe lời Phật thuyết, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành. Lược Giải Như Như Bất Động, chẳng nên chấp nơi tướng Theo lời Phật thì hai chữ Như Như là như thật tế, là như bản thể của tự tánh. Hai chữ Bất Động chẳng phải đối với động mà nói bất động, vì tự tánh bất nhị, chẳng có biến chuyển nên nói bất động. Về bề mặt thì chẳng thể diễn tả, nếu tả theo bề trái thì chẳng động chẳng tịnh, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng một chẳng nhiều … Nên chỉ có thể nói là Như Như Bất Động. Tất cả những đối đãi như động – tịnh, lớn – nhỏ, cho đến Bồ Đề – Niết Bàn đều là tướng, chẳng chấp nơi tướng mới được gọi là Như Như Bất Động. Lược giải hết Kinh Kim Cang Hết
tung kinh nhan qua 3 doi